Cuộc hội thảo ngày hôm nay sẽ có những bài tham luận (1) đóng góp về mặt tư tưởng, lý luận cho loại hình nghệ thuật thư pháp còn quá non trẻ của chúng ta. Ban tổ chức lại còn mong muốn mọi người chia sẻ kiến thức, tìm kiếm cơ hội hợp tác, phát triển nền thư pháp Việt, truyền bá văn hóa bản sắc... Tất cả những việc làm có ý nghĩa và đáng trân trọng ấy, về các lãnh vực ấy, tôi không am tường. Tôi chỉ xin giới hạn nội dung để chỉ nói khái quát về nền thư pháp Việt, sau đó là thư pháp trong nhà chùa với những cảm nhận riêng tư.
Thật là lạ lùng, đây là một cuộc hội thảo nghiêm túc, có tầm vóc “quốc gia” nhưng bản thân tôi lại băn khoăn về hai từ tham luận. Tham là dự vào, xen vào ai cũng biết. Và luận là lời bàn, bàn luận, bàn thảo, kể cả luận suy, luận thức, luận tri, luận chứng, luận vấn... Cả thế gian này, xã hội này ở đâu cũng tham và luận. Nếu tham và luận nhiều quá thì nó sẽ rách việc. Nếu tham và luận chừng mực, hay, nhưng không hành động thì cũng coi như không. Có nhà tư tưởng nào đó nói rằng, ý nghĩ và lời nói chỉ là lá và hoa, nhưng hành động mới là trái và quả. Tất cả chư vị thức giả ở đây đã hiểu điều ấy. Nên chúng cần phải được định hướng. Rồi cùng nhau hành động. Nhưng, mũi tên nhắm đúng tiêu điểm chưa chắc đã trúng vì còn tùy thuộc mắt nhắm, cơ bắp và các tốc độ gió tương tác. Hành động cũng vậy, phải biết quyền biến tùy duyên cơ. Chiếc thuyền thư pháp Việt ra khơi để hội nhập với biển lớn để làm được cái gì đó, cũng tương tợ như vậy.
Còn nữa, nghệ thuật viết chữ là đi tìm kiếm Cái Đẹp, nó thuộc phạm trù mỹ học. Nhưng chúng ta thường tìm kiếm Cái Đẹp ấy bằng dụng cụ gì? Phương tiện nào? Ai cũng biết là sử dụng cảm tính, kiến thức và lý trí - mà chúng là hiện thân của khiếm khuyết và bất toàn. Bi kịch ấy là bi kịch của nhân loại, của mọi chân lý chủ quan trên cuộc đời này. Khoa học cũng thế, nó không khách quan đâu, nó tin vào các thiết bị đo đạc, trắc lượng, kiểm chứng do cảm giác, tri giác và lý trí cung cấp - mà bao giờ chúng cũng sai lạc, không trung thực. Nó cũng khiếm khuyết và bất toàn vậy! Các nhà quang học, thần kinh học và vật lý lượng tử cho biết như thế. Cái Đẹp cũng vậy, nói chung là mỹ học, cả Đông hay Tây đều đang trên đường tìm kiếm, còn lắm tranh luận bất đồng. Do vậy, theo tôi, mỗi người hãy đi theo Cái Đẹp của mình. Ai cũng nên tìm kiếm cái tận thiện tận mỹ trong lòng mình. Tận thiện, tận mỹ của cây xoài là vị ngọt của trái xoài. Tận thiện, tận mỹ của cây mít là vị ngọt của múi mít. Cam, chuối, đu đủ... đều có sự tận thiện, tận mỹ đặc thù, cá biệt tính của chúng. Nếu mà giống nhau thì nguy to! Các vị ngọt dù khác nhau nhưng anh nào cũng tận thiện, tận mỹ cả. Vậy mới thực là đẹp, mới thực là phong phú cho cái cuộc đời nhiều khổ ít vui này.
Đạo Phật là đạo như chân, như thực. Tôi yêu cái chân và cái thực! Nhưng xin thưa rằng, cuộc đời này không dễ gì thấy được cái thực, cái chân đâu! Nếu mà hy hữu có được cái chân cái thực “tương đối” ấy thì để mà sống thầm lặng trong lòng mình; nhưng thiện và mỹ là sống với cuộc đời, dành cho thế gian lúc nào cũng cần những liều thuốc văn hóa để bồi dưỡng sinh hoạt tinh thần; cần tình thương, sự đùm bọc và sẻ chia bằng trái tim nhân ái! Nói logic và biện chứng một chút thì lộ trình ấy phải được đi từ mỹ, đến thiện rồi mới đến chân!
Do vậy, hôm nay, những tư tưởng thâm uyên, những lý luận cao diệu, những đóng góp kiến thức, đường hướng phát triển, gìn giữ bản sắc, quảng bá văn hóa nghệ thuật gì gì đó, xin để dành cho những bài viết của các vị trí thức khác; riêng tôi, tôi chỉ muốn được kể lại cuộc đời mấy mươi năm viết chữ của mình, như một trao đổi thông tin, một tự sự, như một chia sẻ của một người trên 30 năm viết chữ. Nó không phải là những tư tưởng có lửa, những lý luận có cánh; chỉ là những chiêm nghiệm cá nhân, cái nhìn phiến diện được giới hạn trong nhà chùa mà thôi vậy.
Tôi học chữ Hán khi còn bò toài trên bộ phản ngựa do cha tôi dạy với cây roi mây để bên! Lớn lên, 10 năm đèn sách phổ thông, đọc chữ Hán thì nó nhìn tôi, tôi nhìn nó mà không ai hiểu ai! Sau này, khi đi tu rồi tôi mới có dịp học chữ Hán và tập viết thư pháp Hán. Lúc rãnh rỗi lại lật những danh tác của các thư pháp gia Tàu, Nhật để xem. Tôi mê mẩn. Mấy ngón tay cứ bị hấp lực của những con chữ lôi cuốn, từ trang này sang trang khác. Chữ như từng nhát kiếm. Chữ như từng đốt trúc. Chữ như rồng lượn, liền lạc một hơi không bị đứt khúc. Chữ lại thô tháo, vụng về nhưng nhìn một hồi lại toát ra cái chân mộc, thuần phác và điềm đạm, vô sự đến không ngờ! Tập viết mãi cũng chẳng giống ai; mà giống ai đó thì chết rồi, thà đừng viết còn hơn! Mà dẫu viết có đẹp thì cũng chẳng thể nào theo kịp anh Tàu và anh Nhật! Còn nữa, sau này (khoảng năm 1992-1993) do viết hoài cũng không thể bằng thầy Châu Lâm (Phước Thành) nên tôi bỏ.
Trở lại với chuyện viết chữ Việt bằng bút lông. Tôi không còn nhớ chính xác, chỉ khoảng đâu vào năm 1960-1965, tôi được thấy nét bút lông của nhà thơ Đông Hồ, sau đó là nét bút sắc của nhà văn Nhất Linh và nhà thơ Vũ Hoàng Chương trên tạp chí Ngày Nay. Nét bút lông nhỏ nhắn, chân phương của nhà thơ Đông Hồ chỉ mới là người sử dụng bút lông để viết chữ Việt, có tính cách khai phá chứ chưa phải là thư pháp. Nét bút sắc của nhà văn Nhất Linh và nhà thơ Vũ Hoàng Chương được cái phóng khoáng, vượt ra ngoài khuôn thước nhưng lại không phải bút lông, cũng chưa được gọi là thư pháp! Tuy nhiên, gộp cả hai bên, họ là những người gợi ý đầu tiên giúp tôi sử dụng bút lông để viết chữ Việt cho có nghệ thuật hơn một chút. Tuy nhiên, những năm 1974-1976, tôi tập viết mãi những câu thơ đắc ý để treo chơi nhưng nó cũng chỉ là những nét nguệch ngoạc như giun bò!
Khoảng năm 1977-1978, tình cờ đâu đó, lúc vào Sài-gòn, dường như tại chùa Bửu Quang, Thủ Đức thì phải - tôi lại bắt gặp nét bút sắc sảo, góc cạnh của nhà thơ Trụ Vũ. Khí bút của nhà thơ Trụ Vũ mạnh mẽ, nhiều nét như nhát kiếm, dứt khoát nhưng những nét đuôi đi sau thì mềm mại, liền lạc tạo nên sự cương nhu, âm dương hài hòa. Phải nói là sau khi xem bút của nhà thơ Trụ Vũ, tôi mới thật sự tập tành nét bút của mình, tuy vẫn còn rất thô xấu, vụng về.
Các năm 1979-1980, vườn chùa Huyền Không ở Huế treo đầy thư pháp Việt và cả chùa Bửu Quang, Thủ Đức - vì vị trụ trì ở đây là Sư Thiện Quang, bạn thân của tôi. Tại chùa Bửu Quang, nghe sư Thiện Quang kể lại, là nhà thơ Trụ Vũ có đến xem, ông không có ý kiến gì về nội dung thơ, nhưng chê là nét bút còn non. Đúng vậy, không những là còn non mà phong cách cũng chưa ra dáng ra hồn gì!
Thuở ấy, ở Huế, tôi chỉ chơi thi bút một mình, rất “cô đơn”. Và có lẽ, tại Sài Gòn, nhà thơ Trụ Vũ cũng rất cô đơn như thế; thi bút của ông chỉ xuất hiện lác đác trong các ngôi chùa thân quen, chưa lan ra ngoài xã hội. Nhà thơ Trụ Vũ ở Sài Gòn nên có chất liệu giấy, bút, mực khá hơn. Còn tôi ở Huế thì quá nghèo nàn - Huế thơ, Huế mộng, Huế chộng bộng hai đầu - thì đừng nói đến văn phòng tứ bảo! Giấy không có, mực không có và bút triện gì cũng không có luôn. Cứ bạ gì dùng nấy. Tôi cũng chẳng hề nghĩ đến nó là thư pháp Việt. Chính vì tôi là người thích làm thơ nên hễ có câu thơ nào nghe đường được, thế là viết, là treo lên để đọc chơi - nơi một góc làng quê ít người lui tới. Cuộc đời mệt mỏi quá. Dẫu ăn khoai, ăn sắn qua ngày nhưng huynh đệ chúng tôi đã gầy dựng được một vườn lan rất công phu, một bộ sưu tập khá phong phú lan nội cũng như lan ngoại. So với Sài Gòn thì không ăn ai - nhưng ở Huế thì nó là nhất. Vườn lan này là dấu ấn kỳ lạ một thời, nổi tiếng một thời! Thế là không những lan nở bốn mùa mà đến khi đúng tiết của nó như Nghinh xuân, Ý thảo, Dã hạc, Thủy tiên, Phượng vỹ, Hồng liên song tử ngọc ... thì nở cả rừng! (Nếu có ai từng đọc “Lan Huyền Không” của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường thì sẽ có thể biết khái quát lan vườn Huyền Không thuở đó như thế nào). Tôi lại còn làm hồ nước, những bãi cỏ xanh, lác đác những mái thơ, hiên thơ, những cụm đá... rồi điểm xuyết thơ trên tường, treo gốc cây, trên đá, bên lối đi... Lại có thêm mấy bộ bàn đá để những lúc lao động mệt mỏi huynh đệ chúng tôi ra đấy uống trà, chơi cờ tướng. Chúng tôi đã tự tạo cho mình và bạn hữu một không gian với niềm vui êm đềm, thanh bình và lặng lẽ.
Tuy nhiên, những năm 1980-1985, cái vườn chùa quê mùa và lặng lẽ này lại được mọi người ưa thích. Ban đầu là lác đác một vài người bạn cũ, các nhà giáo, một vài thầy rồi lại xuất hiện thêm một số nhà văn, nhà thơ. Hóa ra, có một số câu thơ viết bằng bút lông, đặt để chỗ thích hợp lại tạo nên một cảm xúc sâu đậm trong lòng người. Sau tôi, ở Huế có nhà thơ Nguyệt Đình xuất hiện; ở Sài gòn có nhà thơ Song Nguyên vi vút phóng bút. Tôi không còn nhớ có ai khác nữa không, xuất hiện từ lúc nào - nhưng từ đó, phong trào thư pháp lan rộng ra - kết quả đó là nhờ vào Trụ Vũ, Nguyệt Đình, Song Nguyên được xem như là những con chim đầu đàn. Và cho đến khi Chính Văn, Thanh Sơn, Y Sa... xuất hiện thì thư pháp Việt mới trở nên xôm trò.
Năm 1999, tôi, thầy Châu Lâm, nhà thơ Nguyệt Đình phụ trách gian triển lãm thư pháp Hán-Việt trong tuần lễ Văn hóa Huế tại Hà Nội. Câu lạc bộ thư pháp Huế có mặt từ lúc này, được bộ Văn hóa xác nhận, nhà thơ Nguyệt Đình còn lưu giữ bằng khen. Năm 2002, nhân dịp hội Hoa xuân Huế, chúng tôi thực hiện một vườn thư pháp khá hoành tráng trên bãi cỏ gần CT Cây Xanh. Rồi từ đó, tôi và thầy Châu Lâm rút lui, không tham gia tổ chức một cuộc triển lãm nào nữa. Chủ nhiệm CLB thư pháp Huế do nhà thơ Nguyệt Đình đảm trách. Còn tôi thì ở núi rừng Huyền Không Sơn Thượng, đã để dành một không gian sơn thủy lớn rộng hơn 01 ha để chơi thi bút, bốn mùa đều có thơ, cả hằng trăm bức, thỉnh thoảng có gián đoạn, gần 10 năm nay!
Lúc này thì phong trào thư pháp đã rầm rộ khắp cả nước do sự xuất hiện của các thư pháp gia trẻ tuổi, tôi chỉ nhớ tên một số vị như Bùi Hiến, Nguyễn Thiên Chương, Hồ Công Khanh, Tuấn Hải... Chính nhờ sự xuất hiện của họ mà thư pháp Việt bước lên một cấp độ mới, năng động hơn, trẻ trung hơn (Các nhà thư pháp Hà Nội và các tỉnh thành khác, nghe nói cũng mới mẻ, trẻ trung, tài hoa, mãnh liệt lắm nhưng do tôi không đọc sách báo, tạp chí nên không nắm được thông tin).
Chúng tôi, thế hệ viết chữ đi trước đã già rồi. Ví dụ như nhà thơ Trụ Vũ thì nét bút đã định hình một phong cách, không thể lẫn lộn với ai được. Mà khi đã định hình thì không còn biến hóa được nữa, chỉ có tinh và thuần hơn mà thôi. Nguyệt Đình, Song Nguyên, Chính Văn, Thanh Sơn, Y Sa... cũng tương tợ thế. Chỉ thế hệ trẻ đi sau là có tư duy nghệ thuật vững vàng, không ngừng tìm kiếm và sáng tạo nên tiếp cận được hơi thở của thời đại. Thế rồi các CLB thư pháp, thư họa nườm nượp ra đời - mà rôm rả nhất là Sài Gòn và Đà Nẵng. Tiếp theo là do nhờ các CLB trên mở lớp dạy thư pháp nên bộ môn nghệ thuật chơi chữ này được dịp len lỏi vào các ngõ ngách của nhân sinh, trở thành một nhu cầu tinh thần không thể thiếu trong các chùa, thiền đường, am cốc, lễ, Tết, Phật đản, Vu lan, mừng thọ, lạc thành tân gia, lạc thành nhà hàng, thành hôn, hiếu hỷ, quà tặng đi xa, lịch treo tường, lịch để bàn, phòng trà, phòng khách, bàn làm việc, trên mạng, tên cửa hiệu và cả quảng cáo, minh họa nữa. Thú vị thế đấy.
Để tiếp truyền sinh lực và hơi thở cho nghệ thuật viết chữ, các nhà thư pháp có trình độ đã viết sách dạy thư pháp để quảng bá thêm; sách lý luận, nghiên cứu để đào sâu về tư tưởng... Tôi có viết giới thiệu cho một vài. Trong số sách tôi được đọc trước khi xuất bản, có hai quyển, đối với tôi là có ấn tượng nhất. Một là của tác giả Đăng Lan, hai là của Nguyễn Hiếu Tín.
Nữ tác gia Đăng Lan viết những bài có tính lý luận, gợi mở một vài chiều sâu của tư tưởng cho bộ môn thư pháp. Tuy chỉ mới một vài phác thảo khiêm tốn, có tính mở đường nhưng đã hé lộ được một phần nào đó chiều sâu của tư tưởng cho bộ môn thư pháp làm chỗ sở y. Cái chất Đông phương và chất Thiền bàng bạc ở trong những trang sách làm cho tôi có cảm tưởng Đăng Lan đã mở được cánh cửa đã bị phong kín từ quá khứ - để cho các giá trị mỹ học tâm linh cổ xưa tràn về.
Nguyễn Hiếu Tín là nhà thư pháp trẻ, đã dám cả gan lấy đề tài thư pháp để viết luận văn thạc sĩ cho mình. Đây là cả một công trình biên khảo dài hơi, được đánh giá là xuất sắc của hội đồng giám khảo trường KHXH&NV. Đọc công trình nghiên cứu này, ta có dịp biết đến, tuy khái quát nhưng rất tiêu biểu của các trường phái thư pháp Đông và Tây. Hóa ra, thư pháp không phải là độc quyền của Tàu và các nước đồng văn! Mẫu chữ Ả Rập cũng có thể viết đẹp, mang tính trừu tượng khá cao. Mẫu tự la tinh của các nước Âu Mỹ với nhiều phong cách thể hiện cũng mang tính thực tế, ứng dụng rất đa năng, đa hiệu trong nghệ thuật trang trí và minh họa.
Vậy thì mẫu tự la tinh chữ Việt của chúng ta được dịp cất cánh bay cao, bay xa cũng là nhu cầu của thời đại rất đúng lúc và đúng thời. Các thư pháp gia trẻ tuổi ngày nay tha hồ ngẫu hứng biến hóa, đã bày ra một cuộc chơi mới mà thế hệ già chúng tôi không theo kịp. Từ thư pháp, họ bước qua thư họa; từ thư họa họ biến ra những con chữ ngộ nghĩnh, đôi khi sắp xếp chúng trong một không gian khá nhiều ấn tượng. Được xem một vài tác phẩm của các bạn trẻ, tôi có cảm tưởng họ còn muốn hướng bộ môn viết chữ này đến nghệ thuật hậu hiện đại - mà ở đó - người ta không còn đọc, hiểu nữa mà phải là cảm nhận. Các con chữ được sắp xếp - như nghệ thuật sắp đặt - chúng vừa logic vừa phi logic, vừa hữu thức vừa vô thức. Ở đây, các con chữ tồn tại giữa không gian không tĩnh tại tuyệt đối, mà nó vận động, mà nó không ngừng biến hóa. Đây là điều đáng mừng. Đẹp, xấu hoặc có giá trị như thế nào thì tùy thuộc thời gian và công luận; nhưng chắc chắn một điều: Chẳng có góc độ nhãn quan mỹ học nào có thể định giá - nhưng cái gì đi được vào lòng mọi người thì nó tồn tại!
Nghĩ cũng vui. Câu thơ vốn vô hồn nhưng khi đọc lên, ngâm lên thì nó có hồn. Các con chữ chỉ là ký tự sắp xếp vô nghĩa nhưng khi viết lên, với nghệ thuật, bố cụ thế nào đó thì nó là cả một bức tranh chữ, ngắm nhìn hoài không chán. Nhà chùa nhờ hoa, nhờ cảnh, nhờ thơ, nhờ nét bút mà tạo nên một không gian văn hóa, nghệ thuật riêng, u nhã và thanh bình. Tôi là nhà sư. Bạn tôi, cố trụ trì chùa Châu Lâm, là nhà thư pháp Hán. Y Sa là một vị Ni sư. Trụ Vũ là cư sĩ Phật tử kỳ cựu. Song Nguyên cũng vậy. Nguyệt Đình cũng vậy. Và trong cả nước, tôi còn thấy khá đông chư Tăng Ni và Phật tử nữa. Tuy không tuyệt đối nhưng đa phần các nhà thư pháp, cũ và mới dường như đều là con Phật cả. Cũng lạ kỳ! Vậy thì giữa thư pháp và nhà chùa có liên hệ gì mà xuất hiện đông đảo chư Tăng Ni và Phật tử yêu mến bộ môn này? Tôi sẽ có một vài thiển kiến, một vài kỷ niệm, một vài cảm nhận về điều ấy.
Một người viết chữ thuần thục, tinh luyện bao giờ cũng đi qua ba giai đoạn - xin mượn thuật ngữ của đạo gia để cô đọng ý tưởng ấy - là Tinh, Khí và Thần (tinh thành khí, khí hóa thần, thần hoàn hư). Tinh là toàn bộ hình thức, bố cục, kỹ thuật viết chữ. Khí là toàn bộ tâm hồn, ý khí để thực hiện nét chữ ấy. Và Thần là đã đạt được sự thượng thừa của nghệ thuật chữ. Nếu viết chữ đẹp không thôi, thì chỉ mới là Tinh. Viết chữ đẹp rồi nhưng biểu lộ được cá tính, phong cách, tâm hồn của mình nữa mới là Khí. Ở đây, sự thể hiện linh hồn của con chữ, tùy thuộc từng người, từng lúc, từng khi; đôi khi tùy thuộc chữ và nghĩa, cả ý thơ nữa... Cho nên, có rất nhiều phong cách khác nhau: Có những nét chữ dịu dàng, mềm mại, phóng khoáng, phiêu bồng, điệu dáng, kiểu cách, xương kính, phụng vũ, rồng bay, mạnh mẽ, sóng cuộn, đứt khúc, gãy vụn, cọng cỏ lau gió thổi, dáng trúc đứng hiên ngang, trần lụy, rối rắm, đoan nghiêm, chân mộc, giản phác, thanh thản... Nó nhiều lắm. Còn giai đoạn Thần thì không nói gì được nữa - vì Thần là hoàn hư - nên người ta thường trầm trồ và tán thán: Ồ! Đúng là thần bút! Và không còn ngôn ngữ nào để diễn đạt được nữa!
Vậy, đến đây, tôi tạm kết luận rằng, thần bút là đích điểm tuyệt đối của nghệ thuật viết chữ, ấy là chân trời hướng đến của thư pháp, xưa cũng như nay!
Tuy nhiên, thư pháp trong nhà chùa nó không dừng lại ở đó, ở nơi cái mỹ học hình thức ấy. Nó còn có cả một đại dụng vi diệu, tuyệt bích nữa kìa! Điều tôi sắp nói đây chính là chữ và nghĩa.
Cho chữ nhưng mà chữ gì? Nghĩa chữ ra sao? Ai viết? Ai cho? Đối với Đông phương nói chung, Việt Nam nói riêng, chúng quan trọng lắm. Có một vài cư sĩ lớn tuổi, đến tôi xin chữ, khi cho chữ Đức, họ không dám nhận, nói rằng: Con xét mình, nhà mình chưa có đức gì nên không dám treo chữ Đức - xin sư cho con xin chữ Tâm để hằng ngày nhìn vào tâm mình mà tu tập. Và rồi, đa phần họ xin chữ nhẫn, chữ phúc, chữ an, chữ lạc, chữ thường, chữ trí, chữ định, chữ nhân, chữ hiếu, chữ tín, chữ nghĩa... Còn các chữ thiền, đạo, Phật, thánh, tuệ, giác ngộ, giải thoát... họ không dám treo!
Cũng chuyện chữ. Hồi Cố Đại lão Hòa thượng Trúc Lâm viên tịch - người ta đi đối, liễn thơ rất nhiều; nhưng toàn bộ nội dung phụng cúng ấy, theo tôi, không bằng ba chữ thầm lặng của thầy Châu Lâm. Sự việc như sau. Hôm ấy, tôi và thầy đang ngồi cạnh cỗ kim quan để xem chư Ni trang trí. Bất chợt, thầy tủm tỉm cười, lấy giấy bút ra, phóng liền ba chữ “Bế mạn quan” rất có thần, rồi cho cắt giấy màu kim tuyến dán lên ngay. Thầy nói nhỏ với tôi: “Ôn đã đi quách rồi, còn đâu ở đây nữa mà người ta tổ chức cúng lễ, phúng điếu dữ rứa!” Ôn Từ Đàm tình cờ đi ngang, chợt thấy chúng tôi khúc khích cười, dừng lại, liếc nhìn rồi hỏi: “Ông viết cái chi đó?” Xem xong, Ôn quắc mắc nói: “Tại sao lại “bế” mà “bế mạn”? Chữ nghĩa ấy ở đâu, kinh điển nào?” Thầy Châu Lâm cười ha ha: “Chữ nghĩa mô Ôn, kinh điển mô Ôn! Mạn bộ thủy, chỉ khép hờ rứa thôi, câu thúc chi được, bó buộc răng được trong cái quan ni! Ôn đã “chích lý Tây quy” lâu rồi!” Ôn Từ Đàm có vẻ ngẫm ngợi một chút rồi gật đầu: “Được”, rồi bỏ đi! Ôn Từ Đàm mà nói “được”, có nghĩa là đắc chữ rồi đó!
Cũng chuyện chữ nữa. Khi tôi lên núi dựng một am tranh, xung quanh trồng trúc, đặt tên là Phong Trúc am, thầy Châu Lâm hay lên chơi. Có lần, thầy nói: “Ở đây núi rừng cây cảnh thanh u, rất hữu tình, mà tu sĩ chúng ta đâu phải là người không có tình” - rồi cho tôi một cặp đối: “Bất tục tức tiên cốt, đa tình thị Phật tâm!” Tôi nói: “Không tục là cốt tiên! Nhiều tình (đa tình) là tâm Phật! Hay quá là hay! Câu này của ai?” Thầy cười cười: “Của Ôn Giác Tiên, khai tổ chùa Trúc Lâm, là người cùng làng Giạ Lê, cùng họ Nguyễn Duy với sư đó!” Chữ nghĩa như vậy đấy! Chữ đa tình rất dễ bị hiểu lầm, nhưng khi hiểu tứ vô lượng tâm của đức Phật rồi - thì ai cũng công nhận là từ dùng rất đắc, rất đáo để - để đối với bất tục, rất nhã, rất kín đáo!
Kể sơ qua như vậy để thấy rằng, chữ Hán được cái đắc thể là nó đa tầng, đa nghĩa, đọng, sâu, rộng, khái quát - nên đôi khi chỉ vài ba chữ mà chúng ta phải suy gẫm cả đời, học cả đời không hết. Thơ, đối chữ Hán cũng vậy. Ở nơi cửa Phật, cửa Thiền, có rất nhiều chữ, nhiều câu nó âm trầm, sâu sắc, u huyền vô cùng... Nó rung động sâu xa đến tế bào óc, tế bào tim. Như một nhát đao chém ngọt vào hữu thức thường nghiệm. Như mở ra một hố thẳm tuyệt lộ cho danh lý và ngữ ngôn. Như gợi nhắc thâm sâu con đường trầm luân của nhân thế. Như mở ra cánh cửa một phương trời mây trắng... vân vân và vân vân. Nhưng rất tiếc, chúng ta không có đủ thì giờ rong chơi, ngoạn du vào thế giới này, nên chỉ xin được biểu trưng khái lược rằng: Nó nuôi dưỡng tâm hồn. Nó giữ gìn khí tiết. Nó nhắc nhở thầm lặng lộ trình tu tập. Nó là cuộc chơi tri thức và chữ nghĩa. Nó giáo dục nhân văn và giáo dục tâm linh. Nó giáo dục đạo đức, nhân lý cho cuộc đời. Nó hướng thiện và hướng thượng cho xã hội đang tha hóa, sa đọa vì vật chất và tiền tài. Là cuộc chơi giữa ngàn cao sương khói, chỉ có gió trăng và nước mây thanh bình, tĩnh mặc!
Trở lại với thư pháp Việt. Tạm gọi là thế vì tôi cũng chưa biết thư pháp Việt đã đạt được nội hàm của “nghệ thuật chữ” hay chưa! Tuy nhiên, thì nó cũng chữ, cũng thơ, cũng đối, cũng mang vác sứ mạng cao cả và linh thiêng đâu có thua kém gì thư pháp Hán; nhiều câu thơ, đối chữ Việt cũng thần tình, cũng cổ lục và cảo thơm lắm! Nhưng mà nghe chừng, Tinh, Khí, Thần thì chúng ta có thể đạt; hồn chữ, hồn thơ, hồn bút, thần bút gì đó, có thể chúng ta cũng không thua ai, nhưng chữ và nghĩa thì sao? Dĩ nhiên tôi muốn đề cập đến chữ và nghĩa trên thị trường, đang quảng bá giữa đại chúng mà thôi! Theo cái nhìn hơi nghiêm khắc của nhà chùa - tình thật mà nói rằng, tôi có xem nơi này và nơi kia - thì nói chung, chữ và nghĩa một vài nơi đâu đó còn hời hợt, “mì ăn liền” lắm; nó tràn lan phúc, lộc, tài, thọ, thịnh vượng, an khang; một câu đối không ra đối, một câu thơ không có thơ, một sự lập lại đâu đó thiếu nghiêm túc! Nói chung là nó thiếu cả một, hai tầng văn hóa, đó là chưa nói đến văn hóa tâm linh! Chữ và nghĩa phải nâng cuộc đời này lên, chứ không phải cúi xuống để vừa tầm thị hiếu dung tục của cuộc đời. Chúng ta phải học. Chúng ta phải sáng tạo. Chúng ta phải khổ hạnh để tư duy, tìm kiếm ngữ nghĩa. Nói cường điệu và ngoa ngôn một chút, chúng ta phải đọc cả thư viện kim cổ Đông, Tây để nắm cái sáng, cái khôn của nhân loại, mới xứng đáng là người cho chữ. Điều này thì nên học tiền nhân, họ cho chữ đắc lắm! Cái ấy không phải dành cho thế hệ chúng tôi mà dành cho các thế hệ trẻ có đầy đủ sức khỏe, sinh lực, thời gian, ý chí và cộng cả ước mơ nữa. Phải có ước mơ các bạn ạ. Làm việc, viết chữ, giao lưu mà không có ước mơ thì sẽ trần trụi, khô chết. Đừng nên xem nó là một nghề, một nghiệp - nó là cả một bộ môn nghệ thuật thể hiện cái mỹ và cái thiện phụng hiến cho cuộc đời! Tuổi trẻ là tuổi của màu xanh, của hy vọng; cái gì tuổi trẻ cũng có thể làm được. Tôi rất tin tưởng vào sự thăng hoa thật sự trong mai hậu. Nó đang nằm trong tay các bạn trẻ. Khi cái cây đã nẩy mầm, lớn lên thì nó tự biết hút nhựa luyện để tự nuôi sống mình, tự thích ứng với khí hậu, thời tiết, tự biết chen chân với đồng loại rồi vươn ra ánh sáng để tăng trưởng, để tìm sự tận thiện, tận mỹ cho chính mình. Mỗi nhà thư pháp trẻ, Hán và Việt, cũng y như vậy, rồi ai cũng tự định hình cho mình một phong cách, có cần ai hướng dẫn, vạch lối, chỉ đường cho đâu? Đấy, tôi gọi đấy là tự do và sáng tạo. Có tự do và sáng tạo, tự thân nó đã nội hàm văn hoá, nghệ thuật, bản sắc, nhân văn, nhân tính đầy đủ cả. Ngay chính sự hội nhập đa văn hoá toàn cầu cũng y như vậy. Chiếc thuyền thư pháp ra khơi cũng đi từ nền tảng ấy mà chống mà chèo, mà vượt đại dương.
Đến đây, tôi xin thưa rằng, tuy thần bút là mục đích cao vời của thư pháp, là Cái Đẹp cuối cùng của thư pháp; nhưng đối với nhà chùa thì nó phải cần bước lên một tầng mức chữ và nghĩa nữa. Chữ và nghĩa ấy phải cần hượng thiện và hướng thượng để nâng đỡ cuộc đời đang tha hoá và sa đoạ nầy. Trong xã hội đương đại, Cái Đẹp dễ gì cứu chuộc cuộc đời như văn hào Dostoyevski đã nói? Mỹ mà không có Thiện dắt dìu thì nó chỉ đơn thuần là chuyện thưởng ngoạn, giải trí, mua vui, trưng bày tại những bảo tàng nghệ thuật sang trọng, quý phái; tại các gian hàng buôn bán, tiếp thị, quảng cáo tác giả và tác phẩm mà thôi.
Riêng tại nhà chùa thì nó còn đòi hỏi cao hơn, nghiêm khắc hơn thế nữa. Tinh khí thần chưa đủ. Thêm chữ và nghĩa nữa vẫn chưa đủ. Cả thiện và mỹ nữa, vẫn chưa đủ. Nó phải có chất Phật, chất Thiền. Khi nói đễn chất Phật thì chư thư pháp gia có khả năng nắm bắt được, thể hiện được. Nhưng chất Thiền thì rất nhiều vị phải ngọng nghịu, ú ớ, phều phào... Có một số thư pháp gia viết chữ Phật, chữ Thiền, chữ Ngộ, chữ Zen, chữ Satory, chữ Giác... để chứng tỏ là có Thiền! Xin thưa, tâm sao thì cảnh vậy, người sao thì chữ vậy. Thiền không thể mô phỏng, bắt chước được. Thiền cũng không thể khô chết nơi xác chữ được. Các vị thiền sư họ sống với thiền, họ thở với thiền nên một nét phẩy, một nét chấm, một nét móc, một vòng tròn, một cọng cỏ lau, một đám mây trôi, một giọt sương rơi... tự nó đã viên mãn. Vì chúng đầy đủ tinh khí thần, đầy đủ chữ và nghĩa, đầy đủ sum la vạn tượng, tinh hà nhật nguyệt... Và rốt cùng, tuyệt bích và vi diệu nhất là nó nói được ngôn ngữ thượng thừa, ngôn ngữ chân đế, ngôn ngữ ở ngoài ngôn ngữ. Để minh hoạ cho điều vừa nói, tôi xin kể một câu chuyện về “tròn” và “méo” sau đây:
“- Lão sư Eido Tai Shimano là thư pháp gia Nhật Bản, ông lấy cây bút lông quệt cái vòng tròn – mà chẳng tròn - rồi đề hai chữ ‘ viên tướng’. Lão sư Kogetsu Tani bèn bình phẩm, đại lược rằng: Không nhất thiết phải tròn. Thậm chí, hình tam giác, tứ giác hay bất cứ cái hình gì trong phối cảnh tâm linh thì chúng cũng đều phải tròn cả. Trong con mắt thiền, mọi điều kiện tâm linh, tâm lý, xúc cảm, mọi sự, mọi vật đều hoàn hảo, tự nhiên như nhiên, như chân, như thật! Mặt trăng tròn chứ? Thế thì cái mặt méo kia không tròn sao?” (2)
Thiền “tào lao”, “bội lý”, “phi lý” và “gàn dở” như rứa đó. Ai kham được nhỉ?
Cuối cùng, cho tôi xin đươc kết bằng một bài thơ về chữ và nghĩa, về bút và mực:
“ Nghĩa nằm sau câu chữ,
Bới lửa dưới tàn tro;
Bút, mực chèo và chống,
Qua sông chẳng luỵ đò!”
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNH
Ghi chú:
(1) Bài tham luận này được viết ra để đọc trong buổi hội thảo về thư pháp Việt tại chùa Bái Đính từ 4/3 đến ngày 6/3/2010 – nhưng sau đó tác giả không tham dự.
(2) Xem“Ngôn ngữ Thiền, thư pháp Thiền” của Eido Tai Shimano & Kogetsu Tani - bản Việt ngữ của Hạnh Viên, phát hành năm 2000 (Tác giả có thêm bớt vài chữ trong lời bình).